Nghiên cứu quan trọng của họ đã làm sáng tỏ được ảnh hưởng qua lại giữa giá trị kinh tế thực của một công ty và giá cổ phiếu của nó, bằng việc chỉ ra được những người giao dịch chứng khoán chủ tâm hướng cho giá thị trường cổ phiếu đi xuống để có thể ngầm phá hoại tình hình hoạt động của công ty, cũng như làm cho giá cổ phiếu bị sụt giảm trong tương lai theo một chu trình luẩn quẩn.
Giáo sư Goldstein giải thích rằng: “Cái chúng tôi chỉ ra ở đây đó chính là nhờ việc bán cổ phần mà bạn có được một sự tác động thực tế vào công ty. Nhưng việc kết nối với giá trị thực lại là một việc hoàn toàn khác. Đó chính là yếu tố quyết định.”
Goldstein và Guembel nhận thấy rằng quá trình này chỉ xảy ra khi mục đích là để phá hoại công ty, khi những người giao dịch chứng khoán không có cùng khả năng để tạo được một vòng phản hồi nhằm hướng cho giá cổ phiếu tăng lên.
Mục đích của hành động này chỉ là trục lợi, bởi khi một người giao dịch chứng khoán vay được cổ phiếu của một người môi giới thì họ sẽ bán chúng và hy vọng trả lại khoản nợ đó bằng cổ phiếu đã được mua lại sau khi bán để ăn chênh lệch. Mà hành động trục lợi này có lãi chỉ khi giá thị trường cổ phiếu đi xuống – tức là bán ra thì cao và sau đó mua vào thì thấp. Và nếu giá tăng lên thì anh ta phải mua những cổ phiếu thay thế nhiều hơn những cái mà anh ta đã bán.
Dàn xếp việc định giá cổ phiếu
Sự kết nối giữa giá cổ phiếu của một công ty với giá trị thực của nó không hề khít nhau như nhiều người vẫn nghĩ. Các công ty bán cổ phần ra thị trường để có thêm vốn. Vì thế, một khi các cổ phiếu được lưu thông thì giá của nó có xu hướng tăng hay giảm đều phản ánh được lợi nhuận của công ty đó là nhiều hay ít, nhưng có những động lực khác lại hấp dẫn hơn nhiều – cũng là xu hướng chung trong thị trường hoặc kinh doanh – đó là việc thực hiện của công ty đều liên quan tới các đối thủ cạnh tranh của nó, và như vậy, sẽ có một sự đầu cơ về chiến lược hoạt động của công ty ra sao để sản phẩm và tính cạnh tranh sẽ có tác động đến doanh thu sau này.
Lúc này các nhà đầu tư nhiệt tình có thể đẩy giá cổ phiếu lên cao cho dù không hề có bằng chứng chắc chắn nào doanh thu sẽ tăng. Nhưng lúc sau thì chính cảm tính của nhà đầu tư lại có thể quay ngược lại, dẫn tới việc giá cổ phiếu đi xuống cho dù công ty đó hoạt động hoàn toàn tốt như thường.
Do mối quan hệ giữa việc thực hiện hoạt động kinh doanh của một công ty với giá cổ phiếu có thể quá lỏng lẻo cho nên nó sẽ kéo dài cảm giác rằng số phận của cổ phiếu không nhất thiết phải có bất kỳ ảnh hưởng trực tiếp nào đến giá trị kinh tế thực của một công ty, điều luôn được đánh giá bằng những thứ như tài sản và doanh thu của công ty đó.
Và rõ ràng là những kẻ đầu cơ có thể dàn xếp để đẩy cho giá cổ phiếu xuống với một mục đích trục lợi, nhưng theo một số quan điểm của những người giao dịch chứng khoán khác – hoàn toàn tin vào tình hình hoạt động bình thường của công ty – đều nhìn thấy các cổ phiếu như một sự mặc cả và nhu cầu cao hơn sẽ làm cho giá cổ phiếu ổn định hay tăng lên. Vì thế mà một đợt đầu cơ xuống giá sẽ không có tác động lâu dài. Nhưng nếu việc rớt giá cổ phiểu được gây ra bởi một đợt đầu cơ xuống giá gây ra sự thiệt hại về kinh tế thực sự cho công ty thì các nhà đầu tư khác sẽ ngay lập tức bán tháo cổ phiếu, và chính điều này gây ra một chu trình luẩn quẩn về việc rớt giá cổ phiếu cũng như sự thiệt hại về kinh tế sẽ khiến cho đợt đầu cơ xuống giá đó thu được nhiều lợi nhuận hơn.
Để kiểm tra kịch bản này một cách khách quan hơn, Goldstein và Guembel đã xem xét kỹ một công ty vừa rót khá nhiều tiền vào một dự án tới mức chính công ty cũng khó có thể xác định được chính xác. Và cũng thời điểm đó, có một người đầu cơ biết được giá trị của dự án đó mà chính công ty còn chưa biết được. Lấy ví dụ ở đây là anh ta có thể có được một sự hiểu biết đặc biệt đối với các chi phí về vốn.
Vậy thì, nếu sự hiểu biết đặc biệt này nhận thấy kế hoạch chi tiêu của công ty đó sẽ làm việc tốt thì người đầu cơ đó sẽ mua cổ phần và nhu cầu của anh ta sẽ thúc đẩy giá cổ phiếu lên. Còn nếu sự hiểu biết đặc biệt này nhận thấy kế hoạch chi tiêu sẽ thất bại, anh ta sẽ bán lại cổ phần và chính cái nhu cầu bị giảm đi này sẽ đẩy cho giá cổ phiếu xuống. Và cho dù có bằng cách nào thì sự hiểu biết của người đầu cơ này đều được phản ánh bằng giá cổ phiếu.
Goldstein và Guembel sau đó đưa thêm một yếu tố vào quan điểm truyền thống đối với thị trường này. Đó là công ty xem xét kỹ việc thay đổi giá cổ phiếu như một tín hiệu đánh giá thị trường về triển vọng của kế hoạch chi tiêu của công ty. Và nếu giá cổ phiếu rớt xuống thì việc đánh giá sẽ trở thành vô nghĩa và công ty có thể phải từ bỏ kế hoạch này.
Quay lại vấn đề lúc trước thì người đầu cơ kia cũng đang đưa ra một quyết định theo sự đánh giá của riêng anh ta đối với kế hoạch chi tiêu này. Thế nhưng cả Goldstein và Guembel đều tranh luận rằng cho dù một kẻ đầu cơ chỉ là một người không có sự hiểu biết đặc biệt về kế hoạch đó thì vẫn có thể khai thác được quá trình này nhằm chủ tâm định hướng cho giá cổ phiếu đi xuống.
Giảm giá trị của công ty
Trong nhiều trường hợp, các thương vụ quan trọng vẫn được thực hiện thông qua những người tạo lập thị thường ở Phố Wall, những người có thể mua hay bán chính những cổ phần của riêng họ đang sở hữu. Người tạo lập thị trường này thường đưa ra một giá dựa trên sự đánh giá của họ về thị trường và họ sẽ quyết định mua hoặc bán theo đặt hàng từ một người đầu cơ cho dù đó là người có biết rõ được đôi điều về công ty đó hoặc không hề biết chút gì. Nhưng nói chung, những người giao dịch chứng khoán có kiến thức thường đóng góp cho thị trường này rất hiệu quả bằng cách đảm bảo rằng giá cổ phiếu luôn phản ánh một cách đúng đắn các giá trị của công ty. Và chính việc truyền được niềm tin cho thị trường mà sự hiệu quả này luôn hướng cho giá cổ phiếu tăng lên.
Nhưng theo ví dụ của các tác giả thì khi người đầu cơ bán cổ phiếu cho người tạo lập thị trường là chỉ vì mục đích trục lợi chứ không hề có sự thấu hiểu tình hình. Hơn nữa, việc anh ta bán ra thực sự là làm giảm hiệu quả của thị trường, mở rộng các hướng cho giá cổ phiếu bị sụt giảm và thu được khoản lợi nhuận trước mắt.
Bên cạnh đó, người đầu cơ có thể thực hiện đươc rất nhiều phi vụ trục lợi như vậy để hướng cho giá cổ phiếu xuống. Việc nhìn thấy sụt giảm giá cổ phiếu như một lá phiếu dành cho việc không còn sự tin tưởng, đồng nghĩa là công ty sẽ phải bỏ lại kế hoạch chi tiêu của nó, bị thất thu do mất đi lợi ích mà dự án đó đáng ra mang lại cho nó và cũng vì thế mà gây ra cho giá cổ phiếu bị rớt xuống trong tương lai.
Các tác giả viết rằng: “Thông thường, đây là quyết định sai lầm và chính nó sẽ làm giảm bớt giá trị của công ty đó. Mà điều này có thể khiến cho người đầu cơ kiểm soát được vị thế tạm thời lúc đó của anh ta về việc bỏ ra chi phí thấp hơn nhưng vẫn thu được lợi nhuận. Và để đúng với bản chất của chiến lược này, chúng tôi coi nó như sự thao túng.”
Tất nhiên, việc hết sức quan trọng là để không một ai biết người đầu cơ định sẽ làm tiếp điều gì, chính thế mà Goldstein nói rằng: “Nếu ai ai trên thị trường cũng đều biết rằng mục đích ngăn cản của kẻ đầu cơ là để thao túng cổ phiếu thì nó sẽ không hề có tác dụng.” Ông cũng cho biết thêm rằng việc thiết yếu nữa đó là những người khác tham gia vào thị trường này đều cho rằng người thao túng thường dựa vào những quyết định dựa trên sự thấu hiểu tình hình của anh ta cho dù có thể anh ta chẳng biết chút gì.
Và khi việc thao túng này xuất hiện nó sẽ khiến cho giá cổ phiếu chao đảo, mà đó là điều có ảnh hưởng tới quyết định của công ty xem liệu có nên tiếp tục với dự án chi tiêu của nó hay không. Điều này chỉ có thể xảy ra nếu thỏa mãn ba điều kiện:
1. Giá trị của dự án chi tiêu đó không được quá cao.
2. Phải có được một bản thỏa thuận tốt về tình hình không rõ ràng về việc làm sao mà dự án đó dừng lại.
3. Công ty phải có được sự phản hồi tích cực từ các thị trường tài chính về triển vọng của dự án đó.
Chính thế nên Goldstein và Guembel viết rằng: “Cuối cùng, chúng tôi thấy rằng sự thao túng sẽ trở thành lợi nhuận chỉ khi nó thông qua được những đơn đặt bán ra. Đấy là bởi vì có hai nguồn lợi nhuận đằng sau chiến lược thao túng đó … không thể tạo được lợi nhuận với những đơn đặt mua vào.” Và các giáo sư giải thích rằng: người đầu cơ không hề có sự thấu hiểu về tình hình của công ty sẽ giả định nó có giá trị thấp hơn giá thị trường phản ánh, vậy là anh ta sẽ có một sự động viên để bán ra hơn là mua vào.
Tương tự, một người đầu cơ đang hoạt động mà không có một chút kiến thức chuyên môn nào cũng sẽ tạo ra những điều thiếu hiệu quả tương ứng làm cho giá cổ phiếu bị sụt giảm về sau. Và để có được lợi nhuận dựa trên việc sụt giá cổ phiếu, người đầu cơ này phải sử dụng những phi vụ bán ra nhanh bởi anh ta sẽ bị mất tiền nếu anh ta lại mua vào cổ phiếu.
Như vậy, điều cốt yếu đối với sự thao túng đó chính là sự kết nối giữa giá cổ phiếu với giá trị thực của công ty. Thế nên, giáo sư Goldstein đã nói rằng: “Theo truyền thống, mọi người đều nghĩ những thị trường tài chính dường như không có ảnh hưởng gì tới công ty. Nhưng hoàn toàn đó lại không phải là sự thật.”